Bổn thân ưa chuộng tự do cá nhân và một cuộc sống thảnh thơi. Vô tư, lạc quan, yêu thích thơ văn, ca vũ nhạc, thích làm những gì tự hưởng thụ được. Tính tình hiền lành, vẻ hòa nhã và rất hướng về thiên nhiên, đương số không chịu đựng được áp lực và hòan cảnh thúc bách.
Thương quan cách
Nhật chủ tỏ ra đầy nghị lực, ưa họat động, cạnh tranh, nhiều tham vọng. Thu thập kiến thức rất nhanh, phản xạ nhạy bén và đặt toàn sự ưu tiên cho chính mình. Vì thế rất có khuynh hướng lấn át người khác vì quá ngang ngạnh. Mẫu người tự do như Thực thần cách, nhưng không thích hợp với các nghề nghiệp mang tính cộng đồng.
Chính tài cách
Người rất đáng tin cậy, thận trọng trong lĩnh vực quản lí tài chính và thương nghiệp. Xem trọng gia đình là chỗ dựa cho mình. Ưa thích những việc chính danh ngôn thuận, lại giản dị và xây dựng sự thịnh vượng của mình qua tính siêng năng, chuyên cần, bền chí.
Thiên tài cách
Đương số cũng thích hợp cho ngành quản lí kinh tế, nhưng thường thu họach trong cơ hội nhiều hơn là sự kiên trì như Chính tài cách. Tính tình linh hoạt, luôn tự cảnh giác, mà lại dễ chan hòa kết bạn giao du thân mật. Tóm lại, Thiên tài cách là mẫu người hào phóng, không chần chừ cẩn thận như Chính tài cách. Cả hai đều là các doanh nhân thành đạt nếu cách cục hoàn mĩ.
Chính quan cách
Người rất chính trực, liêm khiết, tỏ vẻ quyền quí sang trọng, nhưng rất khiêm tốn và lịch sự. Cũng giống như Chính tài cách về mặt tin cậy, đương số có kỉ luật và sẵn lòng giúp đỡ. Tinh thần trách nhiệm cao là đặc điểm quí báu nhất của mẫu người này nên rất được kính trọng.
Thiên quan cách
Còn gọi là Sát nếu trong trụ có Kiêu thần (Thiên Ấn). Bổn thân rất cường tráng, đầy khí lực, can đảm và quyết đoán. Không sợ bất kì sự gian khổ, thử thách cam go nào, đương số rất ưa chuộng sự thách thức mà lại thích ra hiệu lệnh hơn là nhận lệnh. Cá tính nổi bật giống như Chính quan là họ cũng tán dương công lý nhưng kém khoan dung, tha thứ hơn. Tính ưa thích thử thách, công kích và hơn người khác qua sức mạnh của mình thường dễ gây xúc phạm với người đối diện.
Chính ấn cách
Người đạt cách này tỏ ra rất chuyên tâm, có lòng ân cần, tử tế, và cũng rất ngay thẳng như Chính quan cách. Nổi bật là lòng trắc ẩn, từ bi và dễ khoan dung. Mẫu người thành đạt ở những công việc của gia đình, xã hội, cộng đồng, mà người khác rất kính trọng và yêu mến.
Thiên ấn cách
Đương số có cách cục này là người có kỹ năng kỹ xảo tốt, linh động, khéo léo trong mọi việc. Thông minh sắc sảo, luôn quan sát kỹ lưỡng từ mức độ thận trọng đến đa nghi, hay ngờ vực. Về xã hội tính thì lại vì tính tình rất điềm tĩnh, không tỏ lộ thiện cảm rõ ràng nên chỉ thành công ở những công việc cá nhân, thu hẹp ở góc độ ít giao tiếp.
Chính Ấn và Thiên Ấn
Tỷ và Kiếp
Thực và Thương
Chính Tài và Thiên Tài
Chính Quan và Thiên Quan
Vài suy nghĩ về tâm tính của 10 thần là chính ta
* Người có Tỷ Kiếp nhiều thường có cá tính kiêu ngạo, tự tôn hơn người khác. Người không có Tỷ Kiếp trợ thân thì thiếu sự cạnh tranh, không được thừa nhận trong đám đông, động viên được họ rất khó.
* Nhưng tùy theo thân vượng hay nhược mà lại có cấp độ khác nhau.
* Vì thế, sự tích cực và tiêu cực kể trên không dành hoàn toàn cho người thân vượng hay nhược. Có nghĩa là người đã vượng lại còn nhiều Tỷ Kiếp thì sự tích cực (mặt đáng kể là có giá trị tốt cho cộng đồng và bản thân) có thể bị đảo ngược lại là tiêu cực.
* Người thân nhược và ít Tỷ Kiếp hoặc không có Tỷ Kiếp trong tứ trụ thì ngược lại không thể đảo lại có thế mạnh của sự tích cực đề ra. Họ chỉ có thể bớt được những cá tính kém giá trị mà thôi.
* Các thập thần khác cũng xét như vậy.
* Nếu mệnh chủ thân vượng thì sự có mặt vừa phải của Thực Thương sẽ làm tiêu hao bớt năng lượng của họ, thể hiện được tài năng ra ngoài.
* Nếu thân nhược thì dĩ nhiên điều nói trên kém cỏi hơn.
* Thực Thương giúp nhật chủ cả vượng lẫn nhược phát sinh ra thu nhập nếu trong trụ có Tài.
* Thực Thương có mặt lại kiềm chế được năng lực tiêu cực của Quan Sát.
* Vì thế, Thực Thương là yếu tố quan trọng giữa nhật chủ và Tài, Quan. Nếu cho rằng khi xét tứ trụ chỉ xem Tài hay Quan, kể cả Ấn là chính, là quan trọng bậc nhất trong tứ trụ là không hiểu rõ tâm tính của Thực Thương.
* Mối lo ngại gặp Thương Quan là "chết" Quan nên hiểu rằng, chỉ khi nào hành của Quan nghiêng về mặt tiêu cực, thì Thương quan lại là sự cứu vớt cho Quan trở về con đường chính.
* Vì thế Thương Quan hữu dụng có những thể hiện qua hành động chân thực, thông minh, dũng cảm...không kém gì Quan.
> Những quan hệ khác (âm với âm, dương với dương) cũng xét như vậy: Kiếp Tài, Thiên Tài, Thiên Quan (Sát), Kiêu thần
> Tóm lại, không có thập thần nào gọi là hoàn toàn tốt, thần nào gọi là xấu, mà chỉ qua các quan hệ hỗ tương của ngũ hành trong tứ trụ mới định được tâm tính của nó.
> Tâm tính của 10 thần chính là tâm tính của ta, không có gì xa lạ. Nghĩa là 10 thần không phải là những "ông thần" ở ngoài tác động vào mình, mà chính là bản thân ta.
> Khi đến đại vận, lưu niên, tâm tính của chúng ta sẽ được thể hiện ra, không phải là một lực nào khác cả. Thí dụ như Tài trong tứ trụ có khí lực tốt (tích cực) thì đến vận Tài chắc chắn rằng có phát sinh ra điều may mắn cho mình. Ngược lại, nếu chúng ta đã có những tính khí tiêu cực của Tài thì đến vận Tài có khi trúng số nhưng rồi cũng tiêu hết hoặc giữ lấy làm của riêng, không hào phóng, không giúp đỡ một ai, v.v... Hoặc "số nghèo" vẫn hoàn nghèo là nằm ở tính tiêu cực của Tài, Thực Thương và Quan.
Thử với 1 thí dụ, nam sinh 24.8.1956, 16:36
Tài............Tài..........................Ấn ..........
Bính Thân - Bính Thân - QUÍ Hợi - Canh Thân (mệnh Kỉ Sửu)
Cách cục là Ấn cách bị Tài phá; tuy Tài vô căn gốc, tọa Bệnh ở Thân, nhưng lộ ra là điều cản trở lớn đối với Ấn. Công năng của Ấn gặp Tài là chịu bị Tài khắc, nên khó mà tiết Quan, sinh Tỉ, chế Thực. Trong trụ không có các thập thần khác thấu lộ, nên tâm tính của Chính Tài thể hiện rõ: làm việc chăm chỉ, cần cù, nhưng tỏ ra chịu đựng, không than vãn. Đây là phá cách, mà Chánh Ấn ở địa chi khá nhiều (3 Thân) nên cũng cho thấy sự hiền lành, không ưa danh lợi, trí tuệ kém linh hoạt của người này. Nói chung là bà vợ cứ chê là người quá "chăm chỉ hạt bột"!
Vì thế, nếu nhận định là thân nhược hóa vượng (Quí tọa tử ở Thân, nhưng Thân kim nhiều và trọng, có Hợi Kiếp tài) và cho rằng Thực, Tài là "dụng", thì với thực trạng tâm tính như thế quả là phải ngạc nhiên vì người này chẳng có tài năng gì, mà cũng chẳng có tiền của dồi dào.
Chính vì vậy mà nhận xét TÀI chỉ là Tiền Bạc, Giàu Có là lệch hướng phán đoán của mệnh lý học. Trước hết nên xét đó là tính cách, khả năng của mình, và Tài (=tiền) chỉ là kết quả của tâm tính thể hiện qua hành vi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét